Liên Xô bí ẩn thực hành thử nghiệm tăng trưởng 1 số chất độc chết người như khí mustard, ricin, digitoxin, curare, cyanide trên các tù binh và nhiều bách tính tương đốic
![]() |
Được thành lập vào năm 1921, phòng thử nghiệm độc hại của Cơ quan mật vụ Liên Xô là 1 cơ sở vật chất nghiên cứu đồng thời cũng là trụ sở chính nơi công trình thử nghiệm vô nhân tính này được thực hành. Tại đây, cơ quan mật vụ đã thực hành hàng loạt các thử nghiệm nhằm mua ra 1 loại hóa chất không màu, không mùi và chẳng thể bị phát hiện ra đề cập cả khi tiến hành tương đốim nghiệm tử thi. Chất độc chết người dưới danh nghĩa là “thuốc” đã được đưa ra thử nghiệm lên các nạn nhân bằng cách trộn vào đồ ănvà thức uống của họ. Để vững chắc độc tính của các chất độc có thể tác dụng với toàn bộ mọi đối tượng, Mairanovsky, người đứng đầu công trình này đã tuyển chọn những người được coi là“chuột thử nghiệm” có tình trạng thể chất và độ tuổi tương đốic nhau.
Kết quả, 1 loạiđộc chất sở hữu hầu hết các thuộc tính mơ ước gọi là C-2 hoặc K-2 (carbylamine-cholin-clorua) có mặt trên thị trường. Khi được đưa vào thân thể người, chất độc này sẽ chóng vánh biến đổi các nạn nhân về mặt thể chất như bị co rút lại, hư nhược trầm trọng, tàn phá hệ tâm thần khiến cho cho họ chẳng thể đề cập và tử vong trong vòng 15 phút.
Dự án Manhattan của Mỹ bí ẩn tiêm plutonium vào 18 thân thể bệnh nhân để thử nghiệm sức chịu đựng của thân thể khi chịu tác động của bom nguyên tử
![]() |
Các thử nghiệm plutonium thuộc công trình Manhattan được thực hành từ ngày 10/4/1945 đến 18/7/1947. Trong cuộc thử nghiệm này, gần 20 bệnh nhân người Mỹ đang nằm điều trị tại bệnh viện đã bị tiêm plutoni với liều lượng chao đảo từ 95-5900 nano mà không phải hay biết. Cứ mỗi lần tiêm, các bệnh nhân chỉ nghĩ rằng đó là 1 lần điều trị thường nhật mà không phải biết họ đang bị tiêm chất phóng xạ chết người plutoni vào người. Cuộc nghiên cứu bí ẩn này đã đưa vào 1 lượng cực nhiều chất phóng xạ vào thân thể bệnh nhân, đủ để lưu lại những hậu quả cực kỳ nghiêm trọng và kéo dài, thậm chí nhiều người còn bị chết ngay sau khi bị tiêm do sốc thuốc.
Đây chỉ là 1 phần trong công trình Manhattan và nhiều công trình vô nhân tính tương đốic thực hành trên thân thể người sống dưới danh nghĩa hợp pháp tại Mỹ. Trong 1 số thử nghiệm, thậm chí ê kíp gồm những tên “thầy thuốc tử thần” còn không ngại ngần dùng trẻ mồ côi và trẻ lọt lòng như “chuột thử nghiệm”. Những em bé đáng thương sẽ bị cho bú sữa nhiễm phóng xạ khi mà những đứa trẻ lớn hơn thì bị tiêm thẳng chất phóng xạ vào người.
Dự án thử nghiệm thuốc chống sốt rét lên các tù nhân ở ngục thất Stateville Penitentiary bất chấp những tác dụng phụ nghiêm trọng. Hơn 1 nửa số người tham dự thử nghiệm đã bỏ mạng.
![]() |
Vào những năm 1940, công trình nghiên cứu bệnh sốt rétđã được tiến hành trên 1 tầng của bệnh viện ngục thất Stateville Penitentiary tạiJoliet, gần bang Illinois (Mỹ).Nghiên cứu này được thực hành nhằm mua hiểu tác động của các loại thuốc chống sốt rét tương đốic nhau lên hệ miễn nhiễm thân thể người.Để tiến hành thử nghiệm, các thầy thuốc của Đại học Chicago đã nuôi Anopheles,loại muỗi vằn mang chủng virus sốt rét nghiêm trọng sau đó truyền bệnh lên các tù nhận sức khỏe. Thông thường, mỗi người sẽ bị cắn từ 10 con muỗi bị nhiễm bệnh, 441 tù nhân đã chết do sốt cao và đau tim. Dự án nghiên cứu sốt rét tạingục thất Stateville Penitentiary kéo dài đến 29 năm mới dừng lại do vấp phải sự phản đối mạnh mẽ từ phía dư luận.
Thời Chiến tranh lạnh, Chính phủ Anh thực hành thử nghiệm khí độc Mustard như 1 loại vũ khí hóa học mới lên thân thể người
![]() |
Từ những năm 1930 và những năm 1940, Chính phủ Anh đã dùng người sống khiến cho vật thử nghiệm nhằm xác định tính hiệu quả của 1 loại vũ khí dùng cho chiến tranh hóa học trên quy mô lớn. Trên thực tiễn, họ đã dùng hàng trăm thương binh người Anh và Ấn Độ vào các cuộc thử nghiệm. Trong thử nghiệm, những người lính Ấn Độ phải mặc quần đùi và áo sơ mi mỏng sau đó bị đẩy vào buồng khí để từ từ trải nghiệm cảm giác giết thịt da cháy rửa do khí Mustard. Liều lượng khí độc này liên tục được các nhà nghiên cứu gia giảm để xác định liều lượng phù hợp để khi dùng trên chiến trận. Nhiều người trong số các đối tượng thử nghiệm bị bỏng nặng do tiếp xúc với khí độc và phải nhập viện để điều trị. Hiện vẫn chưa rõ kết quả điều trị có khả quan và liệu những người này có phải là tự nguyện viên như lời tập huấn của chính phủ Anh hay không.
Dự án 4.1 là 1 nghiên cứu bao gồm các cuộc thử nghiệm độ phơi nhiễm phóng xạtrên những cư dân quần đảo Marshall
![]() |
Mỹ đã thực hành 1 nghiên cứu y học mang tên“Dự án 4.1” lên 239 cư dân tại quần đảo Marshall, Micronesia, những người đã bị phơi nhiễm với bức xạ đáng khởi đầu từ vụ thử hạt nhân Castle Bravo ngày 1/3/1954. Điều đáng đề cập là công trình này cũng bao gồm cả 28 người Mỹ sốngbị phơi nhiễm cũng sốngtại đảo Rongerik Atoll. Những người tham dự vào thử nghiệm này bị nhiễm phóng xạ với chừng độ tương đối trầm trọng được xác định từ 14 đến 175 rads.
Đa số những đối tượng này ban tiêu đều không có ám hiệu nhiễm bệnh do phóng xạ. Nhưng trong vòng vài ngày, các triệu chứng nghiêm trọng sớm nhất như rụng tóc, da bị thương tổn và những khối u khởi đầu xuất hiện. Kết quả trong các tin báo y học giỏi như Tạp chí Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ được xuất bản năm 1955 đưa ra báo cáo tóm lược kết luận rằng không có nhiều biến chứng lâu dài với những người tham dự thử nghiệm. Tuy nhiên trên thực tiễn, 55% trong số 82 người bị phơi nhiễm vào năm 1954 trên đảo Rongelap Atoll và đảo san hô Ailinginae được ghi nhận đã bị ung thư.
Quỳnh Dao (tổng hợp)
Trả lời
Bạn phải đăng nhập để gửi phản hồi.