Trong cuốn “Lưu hầu luận” của Tô Thức có đoạn viết: “Cổ chi sở vị tài năng chi sĩ, tất hữu quá nhân chi tiết. Nhơn huệ hữu sở bất năng nhẫn fake, thất phu kiến nhục, bạt kiếm nhi khởi, đĩnh thân nhi đấu, thử bất túc vi dũng dã. Thiên hạ hữu đại dũng fake, tốt nhiên lâm chi nhi bất kinh, vô cố gia chi nhi bất nộ. Thử kì sở hiệp trì fake thậm đại, nhi kì chí thậm viễn dã.”
Đoạn văn này kể lên rằng, kẻ mà được gọi là tài năng, ắt phải có tiết khí hơn người. Nhơn huệ có chỗ chẳng thể nhịn được, bởi vậy, kẻ thất phu gặp nhục thì tuốt kiếm tương đấu, cái đó chưa đủ gọi là dũng. Những bậc đại dũng trong trần gian, trái lại, bất thình lình gặp những việc “kinh thiên động địa” cũng không kinh sợ, vô cớ gặp những điều oái oăm cũng không oán giận. Đó là nhờ chỗ hoài bão của họ rất lớn và chí của họ ở rất xa.
![]() |
Một người khi gặp vấn đề về lợi ích của bản thân hay bị người khác hạ nhục, nghe phải những lời kể kịch liệt công kích mà có thể mặc nhiên nhẫn chịu, không động tâm oán giận thì đó là 1 loại đại trí huệ. Người tương tự, họ có thể sử dụng tâm thanh bình thản, khoan thứ đại lượng để đối đãi với quan niệm và sự phê bình của người khác đối với mình.
“Nhẫn” 1 lúc gió yên ổn sóng yên ổn, lùi 1 bước biển rộng trời cao.
“Nhẫn” cũng không phải tiện dụng làm cho được, nhưng ở vào lúc suy sụp trong cuộc thế, hay lúc bị vũ nhục, đối diện với được và mất, vinh và nhục, lý trí sử dụng tĩnh tâm khoan thai, khoan thứ, nhẫn nại để ứng đối thì bình thường sự tình sẽ xuất hiện chuyển biến, mở ra 1 cảnh tượng mới. “Nhẫn” là 1 cách hữu hiệu để “rời xa họa, chiêu mời phúc”.
Chúng ta cùng xem 1 số điển tích về “nhẫn” trong lịch sử.
1. Trần Quốc Tuấn nhẫn nhịn cho đại sự
Năm 1281, nhân lúc nhà Trần có sự biến động, Vua Trần Thái Tông đã mất, Trần Thánh Tông nhường ngôi cho con là Trần Nhân Tông. Nhà Nguyên ổn sai Lễ bộ thượng thư là Sài Thung cùng ngàn quân hộ vệ sang sứ nước ta.
Sài Thung đến đế kinh nghênh mặt tự phụ, cưỡi ngựa thẳng vào cửa Dương Minh, bị bộ đội ngăn cản, Sài Thung không xuống ngựa mà còn sử dụng roi ngựa đánh thẳng vào mặt bộ đội khiến cho họ bị thương ở đầu.
Sài Thung trách vua Trần lên ngôi nhưng không sang thiên triều để chầu, đề xuất vua Trần phải sang Nguyên ổn đề chầu và triều cống.
![]() |
Vua sai Trần Quang Khải đến sứ quán tiếp Thung, thế nhưng Sài Thung nằm khểnh không ra. Quang Khải vào hẳn trong phòng, Thung cũng không dậy tiếp.
Biết tin, Trần Quốc Tuấn xin vua tiếp sứ quân Nguyên ổn, khi Quốc Tuấn đến Sài Thung liền vái chào rồi mời ngồi sử dụng trà. Thì ra Quốc Tuấn đã gọt đầu ăn mặc fake làm cho nhà sư Tàu khiến cho Sài Thung phải tiếp.
Khi tiếp kiến Quốc Tuấn, Sài Thung biết người đối diện mình là ai, liền đưa mắt ra hiệu cho lính hầu, lính hầu hiểu ý liền từ đằng sau lấy mũi tên đâm vào đầu Trần Quốc Tuấn đến chảy máu, thế nhưng ông vẫn nhẫn chịu, điềm nhiên trò chuyện như chơi có chuyện gì xảy ra.
Dù rất đau nhưng do Đại Việt đang ở thế yếu, nên Trần Quốc Tuấn chủ động hòa hoãn, nhằm trì hoãn cuộc chiến tranh với nhà Nguyên ổn, để Đại Việt có thêm thời kì chuẩn bị nhóm. Nhờ đó phải đến 4 năm sau, quân Nguyên ổn mới đem binh sang xâm lăng đại Việt, lúc đó nhóm quân ta đã mạnh hơn, đủ sức chống giặc.
![]() |
Trần Quốc Tuấn sau này đã trở thành vị Hưng Đạo Đại Vương lưu danh sử sách. |
Khi 50 vạn đại quân Nguyên ổn tiến đánh nước ta, vận nước rối ren, nhiều người nhắc lại mối thù nhà năm xưa, để Trần Quốc Tuấn nhân thời cơ này báo oán xưa và lên ngôi vua. Theo đó, cha của Trần Quốc Tuấn là An Sinh Vương Trần Liễu trước khi chết nhắc lại mối thù nhà với Vua và còn kể rõ: “Con không vì cha mà lấy được trần gian, thì cha chết dưới chín suối cũng không nhắm mắt xuôi tay được.”
Thế nhưng Trần Quốc Tuấn không vì tư thù mà làm cho hỏng việc nước, trước nhiều lời nhắc lại mối tư thù này, trên tuyến đường tiến quân ông nhẫn nhịn cắm cây kiếm mạnh xuống đất đến gãy cả mũi kiếm, bộc lộ phấn đấu lo cho an nguy của xã tắc.
Chính vì có tâm Đại Nhẫn tương tự, Trần Quốc Tuấn mới làm cho được việc lớn, làm cho Quốc Công Tiết Chế (Tổng chỉ huy quân sĩ) đánh với quân Nguyên ổn Mông 2 lần (lần thứ hai và thứ 3), lần nào cũng giành đại thắng, khiến cho quân Nguyên ổn đại bại tâm phục khẩu phục không còn dám nghĩ đến chuyện sáng đánh nước ta thêm 1 lần nào nữa.
2. Lâu Sư Đức
Triều đại nhà Đường, em trai của Lâu Sư Đức được bổ nhậm làm cho quan thứ sử ở Đại Châu, nhưng ông ta lại là người rất háo thắng. Trước lúc đi nhận chức, Lâu Sư Đức kể với người em trai rằng: “Ta là tể tướng, đệ cũng được phong làm cho thứ sử Đại Châu. Huynh đệ tôi và mọi người nhận được ân sủng của đất nước quá nhiều nên sẽ có người tỵ lại đố kỵ. Đệ có cách nào bảo toàn được tính mạng không?”
Người em liền kể: “Sau này giả tỉ như có người nhổ nước miếng vào mặt đệ thì đệ cũng chỉ cần lau đi là xong thôi chứ không giận dữ lại họ. Như thế là có thể giảm thiểu được phiền toái. Huynh cứ yên ổn tâm.”
![]() |
Em trai của Lâu Sư Đức. Ảnh minh hoạ |
Lâu Sư Đức kể: “Đây chính là điều ta lo lắng nhất! Khi người ta nhổ bọt vào mặt đệ là lúc người ta tức giận đệ nhất. Đệ lau nước miếng đi chứng tỏ đệ bất mãn, phản kháng. Như vậy sẽ khiến cho họ càng thêm tức giận. Đệ nên cười mà nhẫn nhịn, không lau nước miếng mà để nó tự khô.”
Về sau “Thóa diện tự kiền” (nước miếng trên mặt tự khô) trở thành thành ngữ nức tiếng của Trung Hoa. Ví dụ này chỉ ra rằng, khi bị người khác vũ nhục nên cực độ mà nhẫn nại, tuyệt đối không được phản kháng, bất mãn.
Lâu Sư Đức từng tiến cử Địch Nhân Kiệt làm cho tể tướng nhưng Địch Nhân Kiệt không biết. Sau khi Địch Nhân Kiệt lên làm cho tể tướng thường xa lánh ông.
Võ Tắc Thiên từng hỏi Địch Nhân Kiệt: “Khanh xem Lâu Sư Đức có phải người sáng tạo minh mẫn không?”
Địch Nhân Kiệt kể: “Lâu Sư Đức là người như thế nào thần không biết rõ.”
Võ Tắc Thiên lại hỏi: “Lâu Sư Đức có kỹ năng nhìn người không?”
Địch Nhân Kiệt fakei đáp: “Thần từng có thời kì làm cho việc với ông ta, nhưng không nghe kể ông ấy có kỹ năng này.”
Võ Tắc Thiên kể: “Ta phong khanh làm cho tể tướng chính là do Lâu Sư Đức tiến cử, xem ra ông ta quả là biết nhìn người.” Võ Tắc Thiên cũng lấy ra tấu chương tiến cử của Lâu Sư Đức cho Địch Nhân Kiệt xem.
![]() |
Tể tướng Lâu Sư Đức. (Ảnh minh hoạ: Internet) |
Địch Nhân Kiệt thở dài than trách: “Lâu Sư Đức! Ta được ông khoan thứ đối xử mà chẳng phải biết. Ta quả thật thua ông quá xa!”
Lý học gia nức tiếng thời nhà Tống, Trình Di từng kể: Nhẫn được cả việc mà người thường chẳng thể nhẫn, khoan thứ cả việc mà người thường chẳng thể khoan thứ, ấy chỉ có bậc trí huệ hơn người mới làm cho được.
Lâu Sư Đức khoan thứ rộng lượng, có thể bị người khác nhổ bọt lên mặt mà để nước miếng tự khô. Kỳ thực có thể thấy được công phu của “Nhẫn” là vô cùng thâm sâu. Lâu Sư Đức, vị danh tướng, tể tướng triều đại nhà Đường, với phẩm chất cao thượng cẩn trọng nhẫn nhịn hơn người được lưu vào sử sách văn hóa Trung Hoa.
3. Tư Mã Ý
Lần chung kết Gia Cát Lượng đưa quân ra Kỳ Sơn phạt Ngụy, Tư Mã Ý hiểu rõ mình là không phải đối thủ của Gia Cát Lượng nên cố thủ không giao chiến. nhưng Gia Cát Lượng lừa được Tư Mã Ý là quân Thục đang cất lương thực trên núi. Tư Mã Ý quy định đến núi cướp lương nhằm ép Gia Cát Lượng hết lương thực phải rút về.
Tại hang Thượng Phương quân Ngụy bị Gia Cát Lượng sử dụng hỏa công xoá sổ, trong lúc cha con Tư Mã Ý ngửa mặt lên trời than khóc chờ chết thì 1 cơn mưa lớn trút xuống cứu thoát phần nhiều quân Ngụy.
Tư Mã Ý rút quân về bờ nam sông Vị Thủy hạ trại và ra lệnh cho các tướng quyết không được ra đánh. Quyết nhẫn nại cố thủ trong thành để ngăn quân Thục.
Gia Cát Lượng đưa quân đến khiêu chiến, sử dụng đủ mọi cách khiêu khích, hạ nhục, đến chửi mắng quân Ngụy, nhiều tướng Ngụy không sao chịu nhục được, muốn quyết 1 phen đánh với quân Thục, nhưng Tư Mã Ý không đồng ý và quyết thủ trong thành.
![]() |
Tư Mã Ý biết rằng quân Thục tiến quân từ xa đến, thì việc tiếp tế tiếp viện sẽ khôn cùng cạnh tranh. Chỉ cần cố thủ, quân Thục lương hết sẽ phải rút về.
Đây gọi là lấy ‘tĩnh chế động’, không đánh khi kẻ địch đang có lợi thế, chỉ đánh khi quân mình có lợi thế. Đợi thời cơ đến sẽ có thể ‘chuyển bại thành thắng’, tuyệt đối không manh động làm cho hỏng đại sự, đó chính là cái tài của người sử dụng binh vậy. Nhưng để thực hành được kế này thì cần phải có “Nhẫn”.
Thấy mắng nhiếc không có tác dụng, Gia Cát Lượng mang khăn, yếm, cùng bộ đồ con gái rồi cho người đưa sang tặng cho Tư Mã Ý kèm theo lá thư sau:
“Trọng Đạt (tên tự gọi của Tư Mã Ý) đã làm cho đại tướng, thống lĩnh quân Trung Nguyên ổn, không dám mặc giáp cầm gươm, để quyết thư hùng mà chịu ngồi núp ở trong tối trong hang, để lánh lưỡi đao mũi tên, thế thì khác gì con gái? Nay sai người đưa khăn yếm xống áo trắng của con gái đến, giả tỉ không dám ra đánh, thì phải lạy hai lạy mà nhận lấy; giả tỉ còn biết trinh nữ, có chí khí người con trai, thì phải phê vào giấy này, y hứa hẹn ra giao chiến”.
Thời đấy nữ nhi không như hiện giờ, đàn bà thời đấy hầu như chơi tham gia chính sự, chỉ ở nhà giữ mái ấm gia đình. Việc đưa đồ con gái cho Tư Mã Ý là sự hạ nhục vô cùng to lớn, là điều mà không 1 ai có thể chịu đựng được.
![]() |
Người xưa có câu: “Sĩ khả sát, bất khả nhục”, nghĩa là kẻ sĩ thà bị chết chứ không chịu nhục. Tư Mã Ý có thể chịu nhẫn nhục thêm 1 lần nữa, nhưng các tướng sĩ khác không sao chịu nhục thêm được, bất chấp quân lệnh muốn ra trận ngay.
Tư Mã Ý trước đấy đã tâu với Vua xin giữ thành không đánh rồi, nay bèn nhắc lại với các tướng của mình rằng: “Ta có phải muốn chịu nhục đâu, bởi vì thiên tử giáng chiếu, sai giữ vững không cho ra đánh, giả tỉ ta khinh động, thì trái quân mệnh mất”.
Thấy các tướng bực dọc không hài lòng, Tư Mã Ý đành kể: “Các ngươi giả tỉ muốn đánh, đợi ta tâu với thiên tử, rồi sẽ đồng lực ra đánh giặc, được chăng?”
Nói rồi, Tư Mã Ý cho người mang thư báo cho Ngụy Chủ rằng: “Thần tài nhỏ nghĩa vụ to… chiếu chỉ sai thần giữ vững không đánh, để đợi quân Thục bỗng dưng phải tan. Nhưng nay Gia Cát Lượng sai người đưa khăn yếm, coi thần như con gái, thần lấy làm cho hạ nhục lắm. Thần kính tâu trước với hoàng thượng, sớm trưa xin liều 1 trận đại chiến để báo ân triều đình, mà rửa cái trinh nữ cho ba quân. Thần cảm kích không biết ngần nào”.
Vua Ngụy là Tào Tuấn xem xong, hỏi các tướng rằng: “Tư Mã Ý trước xin giữ vững không đánh, nay lại dâng biểu xin đánh là cớ làm cho sao?” Vệ uý là Tân Tỷ tâu rằng: “Tư Mã Ý vốn không có bụng muốn đánh, đây là Gia Cát Lượng hạ nhục, các tướng căm ghét, do vậy dâng biểu lên, là có ý muốn cầu chiếu chỉ để trấn bụng các tướng đấy thôi.”
Tào Tuấn lấy làm cho phải, sai Tân Tỷ cầm cờ tiết đến trại Vị Bắc, truyền lời dụ không được ra đánh. Nếu ai dám kể đến sự đánh, thì ghép vào tội trái chiếu chỉ hoàng thượng. Các tướng đều phải tuân theo. Ý bảo với Tân Tỷ rằng: “Ông thực là biết bụng tôi lắm!”
Gia Cát Lượng được tin liền kể: “Tư Mã Ý vốn không dám đánh, xin đánh là thị oai với chúng đó thôi. Có câu rằng: ‘Tướng ở ngoài, dù vua sai có điều không nghe cũng được’. Lẽ đâu cách xa ngàn dặm, mà phải xin lệnh đánh bao giờ? Đây vì Tư Mã Ý nhân các tướng tức giận, do vậy mượn ý Tào Tuấn để trấn bụng chúng và truyền lời ấy ra, để quân ta sinh trễ tràng đó thôi.”
Sau đó Gia Cát Lượng gặp bệnh mà mất, quân Thục phải rút về. Gia Cát Lượng dù được xem là không có đối thủ, thế nhưng Tư Mã Ý đã sử dụng sự Nhẫn nhịn to lớn của mình mà đẩy lui được đại quân của Gia Cát Lượng.
St (ĐKN)
Trả lời
Bạn phải đăng nhập để gửi phản hồi.