Địa bàn xã Tam Vinh (quận Phú Ninh, Quảng Nam) hiện giờ, toàn bộ thực dân địa giới của xã Tam Dân sau Cách mạng tháng Tám 1945. Đây không chỉ là vùng đất giàu truyền thống văn hóa của độing Chiên Đàn xưa mà còn gắn liền với những sự kiện lịch sử lớn. Từ quá trình mở cõi đến quá trình cách mệnh giải thể dân tộc, địa danh Chiên Đàn, Tam Dân đã nhiều lần đi vào lịch sử chống ngoại xâm. Ngày nay, chính trên mảnh đất ấy đã trở thành thủ phủ của quận lỵ Phú Ninh và nơi đây cũng là điểm kết nối trước tiên của ý thức cộng tác tranh đấu Việt- Lào.
Hai cuộc hơing chiến chống Pháp rồi chống Mỹ đã đi qua, nhiều “sự tích’ và cả di tích vật thể lừng danh cũng bị thời kì khiến nhòe mờ không ít. Bởi thế, giờ đây nhiều phân khúc quần chúng. # ở Quảng Nam cũng rất mơ hồ khi nghe đề cập đến “Phòng Biên chính Nam-Trung bộ” – tên gọi trước tiên của cơ quan Kháng chiến Hạ Lào đóng trên gianh giới quận Phú Ninh hiện giờ. Đây là 1 kỳ tích lịch sử đã có bề dày hơn 60 năm, còn dấu ấn hơi rõ nét và được hình thành trước khi hai Đảng, hai Nhà nước Việt – Lào thiết lập quan hệ ngoại giao và thỏa thuận Hiệp ước Hữu nghị.
![]() |
Toàn cảnh “Mật khu C12” quá trình 1948-1954
Từ những ngày đầu thành lập quận mới Phú Ninh (2005), cán bộ Phòng VH-TT quận đã đặc thù chú ý đến 1 di tích lịch sử còn đang bỏ ngỏ, tọa lạc ngay trong địa bàn phố Phú Thịnh hiện giờ. Đó là ba dãy nhà trệt liên hoàn, nằm trong 1 khu đất rộng, chung vòng vo có bờ tre dày che chở như 1 chiến lũy. Lần theo những tài liệu hiện còn giữ được ở cơ quan Tỉnh đội Quảng Nam và nhất là những cán bộ, đội viên đã từng tham dự trong đội chức hợp tác Lào – Việt, khu di tích này dần được phục dựng quay lại. Trong số những nhân chứng sống lúc bấy giờ, đặc thù có bác Võ Chí Công và các bậc lão thành cách mệnh đã có mặt từ những ngày đầu thành lập “Mật khu”. Ngoài bác “Năm Công” vừa từ trần, hiện giờ còn nhiều bậc lão thành là “Quân tự nguyện” năm xưa vẫn đang sống ở tỉnh thành Tam Kỳ, Đà Nẵng…
Từ những cứ liệu sống động đề cập trên, hiện giờ tôi và quý hơich hàng phần nào đã vén được bức màn lịch sử của tình Hữu nghị Việt- Lào đã diễn ra hơn 65 năm về trước. Mọi người đều biết, sau sự kiện quân Pháp tái chiếm Hà Nội (tháng 2/1947), tướng Va-Luy sang VN thay tướng Lơ Cơlec, để thực hành tiêu chí bình định trên toàn bờ cõi Đông Dương. Nhận định được ủ mưu của địch, tháng 12/1946 Trung ương Đảng ta đã cử đồng chí Phạm Văn Đồng vào trực tiếp đảm đương Mặt trận Liên khu V và Nam Trung bộ. Khi quân Pháp tiến hành mở mang gianh giới chiếm đóng trên bờ cõi ba nước Việt Nam-Lào-Campuchia, đồng chí Phạm Văn Đồng đã xin quan điểm Trung ương (T.Ư) để thành lập Mặt trận Liên minh Việt- Lào chống Pháp.
Địa bàn Tây-Nam Quảng Nam lúc này là “an toàn khu” của nhóm hơing chiến. Nơi đây có chỉ huy sở của Quân khu V và có đường biên giới dài, thông thương với các tỉnh vùng Hạ Lào. Vì thế khi được T.Ư phê chuẩn tiêu chí, Ủy ban Kháng chiến Liên khu V khẩn trương lập phương án liên minh và chọn địa điểm khiến cơ quan chỉ huy Việt- Lào. Mặt hơic, Liên khu chủ động phân công người sang Lào tiếp xúc với cấp lãnh đạo quân sĩ Phathet Lào.
Ngay từ đầu tháng 8 năm 1948, Bộ Tư lệnh Quân khu V đã thành lập đội “Công tác đặc thù” và cử ba đồng chí: Cao Thượng Thủy, Võ Đắc và Nguyễn Đề; do Cao Thượng Thủy người Quảng Nam đảm đương. Tổ công việc mang mật thư của đồng chí Phạm Văn Đồng, vượt trường sơn đi suốt nửa tháng, sang hạ Lào rồi tiếp diễn lên vùng Đông Bắc (gần Thái Lan) để trao thư cho Hoàng thân Xuphanuvông. Lúc bấy giờ, Hoàng thân đang giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao kiêm Tổng Tư lệnh các nhóm vũ trang Lào. Đang lúc quân sĩ Lào gặp cạnh tranh, lại được sự chủ động hỗ trợ của Việt Nam để thành lập Mặt trận Liên minh chống Pháp, nên Hoàng thân rất phấn khích. Sau khi tiếp thư, ông ra lệnh thành lập ngay 1 trung đội, do đồng chí Xổm Manôviêng chỉ huy theo đội Công tác, cắt rừng sang Việt Nam.
![]() |
Bia Di tích Quốc gia
Cùng thời kì đó, ở Quảng Nam (ngày 18/8/1948) đồng chí Phạm Văn Đồng thay mặt Đảng và Chính phủ ta, ký Quyết định thành lập đội chức “Tình nguyện quân” và chọn quân đội từ quân số của nhóm Quân khu V.
Cuối tháng 8/1948, Khu ủy Khu V đã chọn 1 địa điểm bí hiểm, đột ngột trong “an toàn khu” để khiến cơ quan của “Phòng Biên chính Miền nam Trung bộ” và gọi theo mật danh là “Mật khu C.12”. Đó là dãy nhà cổ của ông Nguyễn Soạn (trước cách mệnh tháng Tám đã từng khiến Lý trưởng, nên tục gọi là nhà xã Thám), ở thôn Thạnh Đức (xã Tam Dân cũ- nay thuộc phố Phú Thịnh). Đây là dãy nhà hơi rộng, cấu trúc theo hình chữ “chi”, tọa lạc trên diện tích hơn 5 ha. Chung vòng vo vườn nhà có cây cối um tùm và lũy tre che chở, nên rất lý tưởng cho công việc phòng gian, nghiêm mật.
Đầu tháng 9/1948, cán bộ và Trung đội đội viên Lào trước tiên về đến “an toàn khu”. Sau khi hai bên hợp lực phương án thành lập “Liên minh hơing chiến Việtc- Lào”, khu nhà này được chia thành ba cơ quan trực thuộc: Cơ quan của UBKC miền nam Trung bộ; Khu trưởng khu Hạ Lào và cơ quan của UB Liên quân Lào – Việt. Trước diễn biến nguy cấp ở cả hai nước, cuối năm 1948 quân tự nguyện Việt Nam và quân lính Lào đã tiến hành mở mang gianh giới để vun đắp tiêu chuẩn training và hạ tầng hậu cần. Vì thế, từ Tam Vinh, Tam Thái đến Tam Dân hiện giờ đều trở thành thao trường tập tành của Liên quân Việt – Lào.
Đến cuối năm 1949, quân Pháp đánh hơi thấy có mật hiệu “thất thường” ở địa bàn này, nên đưa máy bay đến oanh kích. Một phần dãy nhà của Khu trưởng khu Hạ Lào bị bom đánh sập, nhưng Ban chỉ huy thoát nạn. Sợ bị lộ bí hiểm nên từ đó, 1 phòng ban của “Khu Kháng chiến Hạ Lào” được chuyển vào thôn Khánh Thọ Tây (thuộc xã Tam Thái) để tiếp diễn điều hành công việc. Phần lớn các bộ máy địa đạo ở Tam Dân, Tam Thái, Tam Đại còn lại hiện giờ đều được đào từ thời kì đó, để cam đoan an toàn quân lương cho quân lính Việt – Lào. Nhờ có “hậu cứ” kiên cố này, nhiều đội chức quân lính Lào tuần tự được đưa sang học tập và training tranh đấu. Trong khoảng 5 năm, Hậu cứ Tam Dân đã tiếp viện quân, lương để quân lính Lào cùng Quân Tình nguyện Việt Nam tiến về giải thể Xêkông, Atôpư, Cao nguyên Bôlôven… và các tỉnh Đông-Bắc của Campuchia. Thực tế lịch sử này đã được Nguyên Chủ tịch nước- đồng thời là UV Ban Cán sự Hạ Lào- bác Võ Chí Công viết trong Thư gửi Bộ Chính trị, ngày 4/12/2006 như sau: “Xã Tam Dân, quận Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam từ cuối năm 1948 đến 1954 là hậu cứ, là hành lang tiếp tế, nơi học tập đoàn luyện của cán bộ, đội viên Việt – Lào; góp phần khiến nên chiến thắng to lớn trên mặt trận Hạ Lào và Đông Bắc Campuchia”.
Như vậy, từ cuối năm 1948 đến 1954, toàn bộ các xã Tam Dân, Tam Thái, Tam Đại, Tam Vinh hiện giờ trở thành nơi học tập và training của nhiều đội chức liên quân Lào – Việt. Đây là nơi trước tiên của cả nước thực hành chủ trương Liên minh hơing chiến Việt – Lào và biểu lộ tình Hữu nghị cụ thể của hai nước Lào- Việt, trong những ngày đầu chống Pháp. “Mật khu C.12” hay “Khu Kháng chiến Hạ Lào” thực tiễn là 1 cơ quan quân sự hợp tác của lãnh đạo hai nước Việt Nam và Lào. Nhờ “Hậu cứ” này không chỉ giúp nước bạn sớm giải thể vùng Trung và Hạ Lào mà còn góp phần hăng hái để quân ta bủa vây và dành không thua ở Điện Biên Phủ (1954). Năm 2005, trong nội dung Tờ trình của Ban Liên lạc Cựu quân tự nguyện Việt- Lào, tỉnh Quảng Nam, cựu Đại tá Nguyễn Thanh Liêm đã khẳng định : “Xã Tam Dân cũ vừa là hậu phương lớn, vừa là tiền phương của mặt trận Hạ Lào và Đông-Bắc Camphuchia, trong những năm chống Pháp…”.
Khu di tích lịch sử đề cập trên đang được các cấp chính quyền tỉnh Quảng Nam và quận Phú Ninh cùng ngành nghề Văn hóa hăng hái phục dựng và hoàn thiện thủ tục Di tích. Năm 2007, “Phòng Biên chính Nam Trung bộ” và “Khu hơing chiến Hạ Lào” được xác nhận là Di tích lịch sử cấp tỉnh. Nhưng do quy mô và tầm vóc của điểm di tích này, phòng VH-TT quận Phú Ninh tiếp diễn hoàn chỉnh thủ tục và buộc phải lên Bộ VH-TT-DL để nâng tầm di tích lên cấp Quốc gia. Và ngày 2/8/2011, Bộ VH-TT-DL đã ký Quyết định số: 2365/QĐ xác nhận tất cả địa bàn Cơ quan “Kháng chiến Hạ Lào” là “Di tích lịch sử cấp Nhà nước”. Đây là việc khiến kịp thời và có nhiều ý nghĩa lớn không chỉ với Quảng Nam mặc cả với nước bạn Lào.
Ngô Khoa
Trả lời
Bạn phải đăng nhập để gửi phản hồi.