Huyền thoại tuyến đường đua
Ông là Nguyễn Văn Tường, 85 tuổi, do quê ông ở Gò Công, Tiền Giang nên mọi người thường gọi ông là Năm Gò Công. Hiện cả gia đình ông đang tá túc trong căn nhà dột nát trong nghĩa trang Bình Hưng Hoà, quận Bình Tân, TP.HCM. Còn đàn ngựa hơn chục con cũng có 1 dãy chuồng rách nát nằm xen giữa những ngôi tuyển mộ.
![]() |
Huyền thoại ngựa đua 1 thời, ông Năm Gò Công ở nghĩa trang Bình Hưng Hoà |
Lúc chúng tôi đến, ông đang cho con ngựa có tên Xích Thố ăn, ông vừa ve vuốt vừa thầm thào cquận trò với nó. Con ngựa chậm rãi nhai, tai vểnh lên nghe như hiểu những lời ông kể. Năm 2011, trường đua Phú Thọ đóng cửa, thời huy hoàng của môn đua ngựa không còn, nhiều người đành rơi nước mắt chia tay những con ngựa từng gắn bó với mình. Riêng ông Năm 1 mực không bán.
“Không hiểu vì sao niềm say mê ngựa trong tôi luôn ngùn ngụt cháy. Mỗi khi nghe tiếng vó ngựa là tim tôi đập rộn ràng y như chàng trai mới lớn gặp ý trung nhân vậy”, ông mở màn.
Năm 12 tuổi, ông Năm thoát ly, lên Sài Gòn xin làm cho chăm ngựa thuê. Năm 1989, trường đua Phú Thọ mở cửa lại, ông chính thức bước chân vào cuộc ctương đối ác liệt cùng những chiến mã.
Ông được thầy Hai Lợi, 1 huyền thoại đua ngựa từ thời Pháp thuộc nhận làm cho môn đệ. Từ ngón nghề của thầy, ông Năm lĩnh hội được những cách thức giảng giải chiến mã không ai sánh kịp. Theo kinh nghiệm của ông thì ngựa tốt, ngựa khỏe giả tỉ giảng giải không nhiều năm kinh nghiệm thì cũng vứt.
Ông kể: “Phải giảng giải làm cho sao để ngựa hiểu ý chủ, chỉ cần 1 cái vuốt nhẹ lúc mình đang trên lưng nó, hay 1 động tác, 1 ánh mắt… là ngựa hiểu ý mình. Như vậy mới mong thắng. Ngựa sáng tạo lắm, nó giống như người thế mà. Mình quý nó thì nó yêu lại thôi”.
Ông Năm kể, 1 trong những bài tập nhanh nhất khi ngựa lên 3 tuổi là mỗi sáng sớm, ngựa phải thức dậy để đi quần nước. Phải có 1 bãi nước vừa chớm ngập đến bụng ngựa. Buổi sáng, nước còn lạnh nên khi nước vừa chạm bụng, ngựa theo phản xạ thiên nhiên sẽ thóp bụng lại. Đó là bài tập nhanh nhất về cơ bụng, giảm cân, tăng kỹ năng kỹ sảo chạy nhanh. Ngoài ra, đứng dưới nước cũng làm ngựa phải nhón chân lên, móng như thế sẽ ít chạm đất hơn, giúp giảm ma sát trên tuyến đường đua nước rút.
Ông vừa nuôi, vừa giảng giải vừa tham dự đua. Ngựa của ông được chăm nom kỹ, được giảng giải bài bản nên hễ tham dự là rinh giải. Tiền thưởng nhận được, ông đầu tư cho ngựa tiếp. Ngựa của ông luôn được dân ctương đối cá cược ưu ái đặt. 4 đứa con trai của ông chỉ học đến lớp 3, lớp 4 cũng nghỉ, theo cha đi làm cho năn nỉ ngựa và tham dự đua.
![]() |
“Không hiểu vì sao niềm say mê ngựa trong tôi luôn ngùn ngụt cháy. Mỗi khi nghe tiếng vó ngựa là tim tôi đập rộn ràng y như chàng trai mới lớn gặp ý trung nhân vậy” – ông Năm tâm tình |
“Nài ngựa cần không phờ phạc hay bơ phờ, trẻ và dũng cảm, mấy đứa con của tôi đều đạt tiêu chí. Tôi chỉ việc giảng giải cho chúng các khoa học basic là có thể tham dự đua”, ông Năm nói.
Mải mê chinh chiến với ngựa, vòng xoáy trường đua cứ hút gia đình ông Năm Gò Công đi mãi, đến miếng đất cũng chẳng thể mua nổi. Có thời, ông sở hữu đàn ngựa giá trị tiền tỉ, nhưng vì nuối tiếc, vì say mê mà ông quyết không chịu bán bớt, lấy tiền mua lấy miếng đất chọi chim, dựng căn nhà nhỏ cho vợ con ở.
Từ chăn ngựa thuê thành cao thủ
Người đàn ông thứ hai chúng tôi gặp, cũng đầy “chiến tích” trên tuyến đường đua và cũng “cứng đầu” không chịu chia tay bầy ngựa của mình, đó là ông Võ Bửu Trí, ở ấp 1, xã Xuân Thới Sơn, quận Hóc Môn.
![]() |
Ông Võ Bửu Trí |
Năm nay đã 76 tuổi nhưng trí tưởng của ông vẫn còn rất sáng suốt, ánh mắt ông rộn rực khi nói về ngựa đua, cái công việc đã gắn liền với ông hơn 60 năm. Ông nói, năm 9 tuổi ông khởi đầu gắn bó với ngựa bằng nghề chăm nom ngựa ở trường đua Phú Thọ. Công việc của ông là dắt ngựa đi bộ, tắm cho ngựa, và ăn ngủ cùng ngựa. Những bí kíp nuôi ngựa đua được ông tích góp từ những tháng ngày ấy.
Ông Trí nói: “Hồi đó, giá mỗi con ngựa đua là vô cùng đắt đỏ, làng nhàng 1 con ngựa hay có giá khoảng hơn 30.000 đồng (tương đương khoảng 15 cây vàng). Năm 1960, tôi bỏ ra mười bảy nghìn đồng để mua 1 con ngựa đua. Sau mấy trận thắng, tôi bán lại cho 1 chủ khác ở trên Chợ Lớn được gần trăm nghìn. Sau này, nhiều lúc đàn ngựa của tôi lên đến mấy chục con. Trong đó có những con giả tỉ muốn bán, “hét” giá trên trời cũng có người dắt ngay”.
Nói về “sang trọng” ngựa đua Sài Gòn, ông Trí không giấu vẻ kiêu hãnh: “Đua ngựa vào Việt Nam chưa lâu, nhưng danh tiếng thì mãi bên Tây, bên Mỹ còn nghe.
Nhiều con ngựa chỉ kể tên là người ta nhớ và suýt xoa, như: Thoại Lang, Xích Tú, Trúc Mai, Tuấn Mã, Long Sơn Hiệp, Xích Tu Long, Phụng Hoàng, Ô Điểu… hay những con ngựa có tên Tây như: Lipa Sinette của ông Dương Hạo Tôn; con France Vedé của ông Ba Tộ.
Đặc biệt có con Lữ Bố của ông Chín Xèng, từng 48 lần đoạt vô địch, trong đó mấy lần đoạt giải ở nước ngoài. Khi con Lữ Bố già, chết, ông Chín lập tuyển mộ cho nó như người”.
Trong số những con ngựa nổi danh, ông Trí cũng có vài con. Trong đó, ông quý mến nhất là con Phụng Hoàng.
“Đó là 1 con ngựa thuộc giống Hoàng gia Anh, tôi mua dưới Hòa Khánh Đông, Đức Hoà, Long An. Lúc đầu, nó tương đối còi, lại không có tướng chiến mã, dắt về ai cũng chê, nhưng tôi vẫn linh giác thấy đây là con ngựa tốt.
Và đúng như thế, sau 3 năm nuôi, giảng giải, con Phụng Hoàng khởi đầu trổ mã. Chân dong dỏng gọn, móng sức, ức cao, cổ vươn thẳng đứng, bờm dựng như mây lúc hừng đông, lưng dài và thẳng đều tăm tắp, đuôi cong vút như dãy núi uốn lượn.
Hồi đó, khi tôi dắt ngựa đến trường đua, ai nhìn nó cũng xuýt xoa khen và đặt cược nó sẽ về nhất. Một trong những điểm cực hay của con Phụng Hoàng là nó hiểu ý khi năn nỉ ra hiệu chạy nước rút ở cuối chặng, y như người vậy. Nhờ thế mà nó thắng hoài”, ông Trí nói.
![]() |
Ông Trí là 1 trong số ít người còn lưu giữ được những kỷ vật 1 thời trên tuyến đường đua ngựa |
Một kỷ niệm khó quên nữa là năm 1965, con Xích Tu Long của tôi đấu với con Long Sơn Hiệp của ông Trần Ngọc Sơn ở Xóm Gà, Q.5, 1 trong những tên tuổi lớn trong làng ngựa đua thời đó. Tôi nhớ ngày 2 con ngựa thi đấu, trường đua Phú Thọ lớn là thế mà không còn chỗ trống.
Các nhà thầu khoán, trạng sư, thầy thuốc, trí thức và hàng nghìn người dân ngồi trên khán đài cổ vũ, reo hò vang trời. Trận đó, Xích Tu Long thua Long Sơn Hiệp, nhưng đấy vẫn là 1 trong những trận đua đáng nhớ nhất trong đời. Cả 2 con ngựa đều làm người xem vô cùng mãn nhãn vì tốc độ như gió, khoa học điêu luyện, chứng tỏ sang trọng của người giảng giải”.
Mong 1 ngày vó ngựa lại tung
Một người đàn ông khác, cũng dành trọn thế cuộc cho niềm say mê ngựa là ông Baurdon (thường được mọi người gọi thân tình là Ba Đồng), 70 tuổi, người Pháp gốc Việt, ở xã Xuân Thới Sơn, Hóc Môn, TP.HCM. Ông Ba Đồng hiện đang nuôi đàn ngựa gần chục con, đều là những chiến mã vang danh 1 thời trên tuyến đường đua.
![]() ![]() |
Ông Baurdon (Ba Đồng) với đàn chiến mã 1 thời vang danh |
“Số ngựa này tôi mua lại từ nhiều người, vì họ không có kỹ năng kỹ sảo giữ nên phải bán. Mà bán làm cho ngựa kiểng hay ngựa thồ thì họ không muốn. Tôi là người có cùng say mê, nên họ cũng muốn gửi gắm, kỳ vọng có ngày được thấy nó tung vó trên tuyến đường đua trở lại”, gặp tôi, ông Baurdon phân trần.
Không chỉ có niềm say mê ngựa đua mãnh liệt, ông Baurdon còn là người “thuộc lòng” lịch sử trường đua Phú Thọ và nguyên do vì sao môn đua ngựa tại Việt Nam “sinh sau” mà vẫn nổi danh, được toàn cầu biết đến.
Ông nói: “Tôi sinh ra ở Việt Nam nên biết rõ, thời nhà Nguyễn, có 1 khu đất hoang rộng ở địa bàn quận 3 giáp quận 10 được trọn làm cho thao trường cho quân sĩ. Khi Pháp xâm lăng nước ta, địa bàn này trở thành trường bắn. Hồi đó, vào mỗi cuối tuần, lính Pháp lại doanh nghiệp đua ngựa để tiêu khiển.
Ngựa đua lúc đó là ngựa cỏ Bắc Phi, nhỏ con, dai sức, có thể thồ nặng, nhưng không phi nước đại được. Ngựa này, khi già, bị thải loại, thường được bán cho các quý bà làm cho công cụ, thời đó gọi là “ôtô hí” (cười).
Sau đó, 1 nhà thầu Pháp đầu tư 1 vòng đua ngựa nhỏ cạnh con tuyến đường đất đỏ tên Verdun (nay là Điện Biên Phủ) để doanh nghiệp đua ngựa. Lúc đầu chỉ có đám quân sĩ Pháp tham dự đua, người Việt mua vé vào xem. Phần thưởng cho con ngựa về nhất hồi đó là những chai bia “con cọp” (bia Larue) chứ không có tiền.
Càng ngày, khách xem đua ngựa càng đông, sân không đủ sức chứa nên năm 1930, người Pháp cho xây trường đua Phú Thọ. Năm 1945, biến cố chính trị làm trường đua bị đóng cửa. Đến năm 1959, Ngô Đình Diệm nhận thấy lợi nhuận “khủng” từ trường đua nên cho mở lại để thu thuế. Hồi đó, nghe kể mỗi năm tiền thuế sân đóng cho chính quyền ông Diệm lên cả trăm cây vàng.
Nhưng, do giống ngựa Bắc Phi chạy chậm, nhìn chúng đua không nhiều năm kinh nghiệm nên sau khi tham khảo quan niệm 1 số “cao thủ” trong làng ngựa đua Đức Hòa, Long An, trường đua Phú Thọ cử người ra nước ngoài tuyển về cặp ngựa giống Ả Rập, giống ngựa có thân hình vạm vỡ, mặc dầu chạy nhanh nhưng không dai sức, đưa về lai giống với ngựa Bắc Phi”.
“Kết quả là cho có mặt trên thị trường 1 thế hệ ngựa đua to cao, chạy nhanh và dai sức?”, tôi hỏi, ông Baurdon gật đầu kể tiếp: “Họ đem về 2 con ngựa tên là Columbo và Danis. Ngựa đua ở Sài Gòn và các vùng lân cập sau này đều là giống ngựa lai Ảrập và Bắc Phi. Ngoài ra, nghe đâu năm 1990, TP có mua thêm 2 con ngựa Hồng Kông tên Philipan và Shahara về lai tạo nữa.
Lúc này, đua ngựa mới đích thực nhiều năm kinh nghiệm. Tuỳ theo vóc dáng, cân nặng, ngựa đua được phân loại A, B. Con loại A về nhất được thưởng 12.000 đồng, loại B 10.000 đồng. Đây là số tiền không nhỏ đâu. Nên những người có ngựa nhiều năm kinh nghiệm, 1 tháng có khi kiếm cả mấy chục cây vàng, giàu lắm”.
“Cái thời hoàng kim, 1 con ngựa chỉ cần vài lần đoạt giải nhất là người ta săn lùng mua ráo riết. Giá có khi cả trăm cây vàng 1 con. Rất nhiều người giàu lên nhờ ngựa. Vậy mà khi trường đua Phú Thọ đóng cửa, dân nuôi ngựa đua lểu đểu, giá mỗi con từ cả trăm triệu rớt xuống còn chục triệu, có khi phải chăng hơn. Buồn hơn là những con ngựa quý của trường đua Phú Thọ ngày xưa đang dần vắng bóng”, ông Năm Gò Công bùi ngùi.
Theo PHÚC LẬP/NNVN
Trả lời
Bạn phải đăng nhập để gửi phản hồi.