Lò vi sóng
Năm 1947, lò vi sóng lần sớm nhất chính thức thành lập.
Lò vi sóng thành lập rất khi không khi nhà phát minh Spenser nhận thấy thanh kẹo của ông bị chảy ra khi ông đứng gần 1 đài radar. Với tri thức chuyên sâu về kỹ thuật, ông hiểu rằng chính luồng sóng điện từ của cỗ máy đã khiến cho cho tan chảy thanh kẹo. Từ đó, ý tưởng về 1 chiếc máy khiến cho cho nóng thức ăn bằng các sóng điện từ đã nhen nhóm trong đầu của Spenser. Năm 1947, lò vi sóng lần sớm nhất chính thức thành lập.
Giấy ghi nhớ
Giấy ghi nhớ được Spencer Silver mua ra khi đang cố phát minh 1 loại chất dính tốt nhưng không được.
Cố phát minh ra 1 loại chất dính tốt nhưng lại chỉ mua ra loại keo có độ dính yếu, Spencer Silver cho mình là vô dụng. Tuy nhiên, đồng nghiệp của ông tại doanh nghiệp 3M là Arthur Fry đã chứng minh điều trái lại, ông tiêu dùng loại keo đó để dính mẩu giấy đánh dấu các trang sách. Trong 1 lần đi nhà thờ, cách khiến cho cho của Fry đã lôi kéo sự chú ý của nhiều người, từ đó giấy ghi nhớ đã phát triển thành nhiều hình thức.
Khóa dính Velcro
Khoá dính Velcro thành lập khi George de Mestral thấy nhưng bông hoa dính vào xống áo của mình có sợi tua hình cái móc.
Một ngày đẹp trời, nhà phát minh George de Mestral đi dạo cùng chú chó của mình trong 1 cánh rừng gần nhà. Khi quay về, xống áo ông bị dính đầy những bông hoa cỏ. George tự hỏi điều gì khiến cho chúng dính quá chặt vào xống áo như thế. Đặt 1 bông hoa dưới kính hiển vi, ông thấy mỗi bông cỏ đều có sợi tua hình cái móc, nhờ thế đã khiến cho chúng thuận tiện dính chặt vào xống áo. Ý tưởng về chiếc khoá dính Velcro đã thành lập từ đó và được áp dụng rất nhiều trong phong cách.
Vô tuyến truyền hình
Philo Farnswort phát sinh ý tưởng về vô tuyến truyền hình khi khiến cho cho việc trên cánh đồng táo.
Philo Farnswort phát sinh ý tưởng về vô tuyến truyền hình khi khiến cho cho việc trên cánh đồng táo. Những luống cày trên ruộng khiến cho cho ông nghĩ tới 1 cỗ máy có thể ghi lại hình ảnh và hiện dấu hiệu điện tử có thể quét được hình ảnh. Năm 1927, ông nghiên cứu và tạo ra 1 chiếc vô tuyến truyền hình điện tử sớm nhất.
Hình học toạ độ
Hình học tọa độ thành lập khi Descartes diễn tả chính xác tọa độ bay của con ruồi.
“Tôi tư duy nghĩa là tôi còn đó”, câu kể tiếng nức tiếng của Descartes thường được mọi người nhớ nhiều hơn là phát minh hình học toạ độ của ông. Tuy nhiên, định nghĩa hình học của Descartes được nhân loại tiêu dùng nhiều hơn cả. Từng là đứa trẻ ốm yếu, suốt ngày chỉ nằm trên giuờng nên Descartes quan tâm và theo dõi 1 con ruồi bay lượn trên đầu mình. Bằng trí sáng tạo vốn có, ông mô tả 1 cách chính xác toạ độ bay của chú ruồi bằng việc chú ý vào tuyến đường bay của nó từ tường qua trần nhà. Từ đấy, hình học toạ độ thành lập. Giờ đây, hình học tọa độ là môn học chẳng thể thiếu trong chương trình giảng dạy của hồ hết các đất nước trên toàn cầu và là nền móng cho nhiều tri thức kỹ thuật khác.
Archimedes và Vương miện vàng
Có lẽ Archimedes không phải là người sớm nhất phấn khích khi mua ra 1 phát minh nào đó. Nhưng lịch sử ghi nhận ông là người sớm nhất kể câu “Eureka” (mua ra rồi). Câu chuyện khởi đầu khi Vua Hiero II, Hy lạp, nghi ngờ chiếc vương miện của mình không được khiến cho cho từ vàng. Archimedes được giao mua hiểu sự thật với điều kiện không khiến cho cho hư hại chiếc vương miện kia.
Archimedes nức tiếng với câu kể “Eureka” (mua ra rồi).
Một lần, ông mang theo chiếc vương niệm vào bồn tắm và phát hiện có thể rà soát chiếc vương miện bằng khối lượng nước nó chiếm. Nếu vương miện được khiến cho cho từ 1 chất khác thì khối lượng nước sẽ ít hơn so với việc nó khiến cho cho hoàn toàn bằng vàng. Trong lúc kỳ thú, ông chạy đi báo với đức vua trong trạng thái không 1 mảnh vải che thân.
Truyền dẫn hoá học xung điện tâm thần
Năm 1900, các nhà kỹ thuật đã lần sớm nhất bắt buộc triển khai ý tưởng truyền dẫn hóa học của xung điện tâm thần, tuy vậy, ý tưởng vẫn còn là 1 giả thuyết. Đến năm 1920, 1 đêm gần dịp lễ Phục sinh, nhà kỹ thuật Otto Loewi mơ 1 giấc mơ kỳ lạ: ông đã có thể chứng minh bí quyết thực nghiệm về truyền dẫn hoá học xung điện tâm thần.
Ngay tức thời, ông đã bật dậy, nao nức lấy giấy bút viết nguệch ngoạc vài con chữ rồi tiếp diễn đi ngủ. Vậy mà, khi tỉnh giấc vào sáng hôm sau, ông chẳng thể hiểu nổi mình đã viết hay vẽ cái gì. Đến tối hôm đó sau, ông lại có cùng giấc mơ tương tự và lần này ông không ngủ tiếp mà biên chép tỷ mỉ hơn công thức của mình. Nhờ phát hiện này mà Loewi nhận được giải thưởng Nobel về sinh lý y khoa năm 1936.
Thuyết hơi
Một lần giới hạn xe tại cột đèn liên lạc gần tháp đồng hồ Bern, nhà bác học Einstein mua thấy câu giải đáp cho những câu hỏi mà lâu nay nay ông băn khoăn về thuyết hơi. Mối quan hệ giữa chiếc xe – cột đèn liên lạc và chiếc xe với tháp đồng hồ là minh chứng rõ ràng nhất cho tính hơi và tuyệt đối của thời kì. Từ đó nhà kỹ thuật rút ra kết luận: Thời gian không phải bất biến mà nó phụ thuộc vào tốc độ mà bạn dịch chuyển.
Theo Ngaynay
Trả lời