Dù lập được chiến công phi thường nhưng sự trung thành của ông khiến cho cho đa số phải khâm phục.
Buông bỏ hận thù mới là trang anh tài
Cơ nghiệp của nhà Trần khởi lên được là nhờ 1 tay thái sư Trần Thủ Độ. Ông dàn xếp cuộc hôn nhân giữa Trần Cảnh và Lý Chiêu Hoàng. Rồi cũng chính tay ông ép Chiêu Hoàng nhịn nhường ngai rồng cho Trần Cảnh (sau này đăng cơ là Trần Thái Tông). Bởi Trần Thái Tông ở ngôi 11 năm mà vẫn chưa có con nối dõi, Thái sư Trần Thủ Độ tiếp diễn dàn xếp 1 cuộc hôn nhân khác. Ông ép Trần Liễu (anh ruột Trần Thái Tông) phải nhịn nhường lại vợ là Thuận Thiên công chúa cho vua Trần Thái Tông. Khi ấy, Thuận Thiên công chúa đã mang thai được 3 tháng.
Anh Sinh vương Trần Liễu (chính là cha của Trần Quốc Tuấn) 1 lúc mất đi cả vợ lẫn con, đùng đùng nổi trận lôi đình. “Đại Việt Sử Ký toàn thư” chép lại việc này như sau: “Đinh Dậu, năm thứ 6 (1237)… Lấy công chúa Thuận Thiên Lý thị, vợ của anh là Hoài Vương Liễu, lập khiến cho hoàng hậu Thuận Thiên, giáng Chiêu Thánh khiến cho công chúa. Bấy giờ Chiêu Thánh không có con, mà Thuận Thiên thì có mang Quốc Khang ba tháng. Trần Thủ Độ và công chúa Thiên Cực mật mưu với vua là nên mạo nhận lấy để nhờ về sau, thành ra có mệnh ấy. Do đó Liễu họp quân ra sông Cái khiến cho loạn”. (Đại Việt Sử Ký toàn thư, quyển V, kỷ nhà Trần).
Tuy nhiên, cuộc nổi loạn của Trần Liễu bất thành. Tự nhận thấy sức lực không đủ, thân cô thế cô, Liễu tình nguyện đầu hàng. Theo Đại Việt Sử Ký toàn thư chép, được hai tuần cử sự, Liễu tự biết thế cô, ngầm đi thuyền độc mộc fake khiến cho người đánh cá đến chỗ vua Trần Thái Tông xin hàng. Hai anh em gặp mặt, mừng mừng tủi tủi mà ôm nhau khóc. Trần Thủ Độ tiến tới đòi giết mổ Trần Liễu. Vua phải giấu anh trai ở trong thuyền, lấy mình che đỡ, xin Thủ Độ tha mạng cho Trần Liễu.
Dù vậy, Trần Liễu vẫn mang trong lòng mối thù sâu nặng. Trước khi hấp hối, ông gọi Trần Quốc Tuấn đến giường dặn dò: “Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được”. Chiều lòng cha, Quốc Tuấn gật đầu nhưng trong bụng vẫn không cho đó là điều nên khiến cho.
Tranh triều Nguyễn vẽ Trần Hưng Đạo. Ảnh: Wikipedia
Quốc Tuấn vốn từ nhỏ đã có tư chất sáng tạo hơn người, đọc rộng hiểu nhiều, tài kiêm văn võ. Khi mới sinh, 1 thầy bói số nhìn Quốc Tuấn và đoán: “Đứa trẻ này lớn lên sau này ắt sẽ trở thành anh dũng, có thể giúp đời cứu nước”. Lớn lên, trong lòng Quốc Tuấn quả tình không có chí phục thù, rửa hận như di ngôn của cha. Là hoàng thân, ông luôn được thân thiện với vua Trần, có thể nói là muốn xuống tay hạ thủ khi nào cũng được. Nhưng vốn thấu tỏ lẽ cương thường, đạo vua tôi nên ông lúc nào cũng cung kính nghe mệnh. Ông phò tá qua mấy đời vua Trần đều giữ 1 khoảng cách phân định vua tôi rõ ràng như thế. Có lần, đi dạo cùng Trần Nhân Tông, ông cầm 1 cây gậy bịt sắt nhọn. Thấy các cận thần cứ đưa mắt nhìn vào chiếc gậy có ý phòng ngừa, Quốc Tuấn bèn bẻ gẫy đôi chiếc gậy đi tức khắc để xoá mối hoài nghi.
Sau này, khi vận nước lung lay, quân Mông Cổ phạm vào cương vực, đe doạ nuốt trộng vương triều Trần non trẻ, Trần Quốc Tuấn trở thành trụ cột nước nhà. Ông lại đem việc cha dặn dò trước lúc hấp hối bàn với các gia thần là Dã Tượng, Yết Kiêu để thử lòng họ. Hai tướng vốn được Quốc Tuấn thu nhận từ thuở hàn vi, đã theo ông chinh chiến nhiều năm, nói: “Làm kế ấy tuy được phú quý một thời nhưng để lại tiếng xấu ngàn năm. Nay Đại Vương há chẳng đủ phú và quý hay sao? Chúng tôi thề xin chết già làm gia nô, chứ không muốn làm quan mà không có trung hiếu, chỉ xin lấy người làm thịt dê là Duyệt làm thầy mà thôi” (Đại Việt Sử Ký toàn thư, quyển VI, kỷ nhà Trần).
Quốc Tuấn nghe lời gan ruột của các tướng, trong lòng cảm phục vô cùng, nước mắt tuôn rơi, khen ngợi Yết Kiêu, Dã Tượng mãi không thôi.
Một lần khác, ông lại đem chuyện ấy ra hỏi con mình là Quốc Tảng. Quốc Tảng dõng dạc nói: “Tống Thái Tổ vốn là một ông lão làm ruộng, đã thừa cơ dấy vận nên có được thiên hạ”, ý muốn khuyên cha nên thừa cơ cướp lại ngai rồng. Quốc Tuấn nghe xong nổi nóng đùng đùng, rút gươm kể tội: “Tên loạn thần là từ đứa con bất hiếu mà ra”, đoạn toan giết Quốc Tảng. Người nhà khóc lóc mãi, xin chịu tội thay, Quốc Tuấn mới tha. Nhưng ông vẫn chưa nguôi giận, dặn đi dặn lại sức nhà: “Sau khi ta chết, đậy nắp quan tài đã rồi mới cho Quốc Tảng vào viếng”.
Lấy thiện đãi người, tấm lòng bao dong như biển cả
Tranh vẽ Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn. Ảnh qua: Message.com.vn
Khi vó ngựa Mông Cổ đã phạm vào cương vực, việc cần thiết nhất chính là không chia rẽ lòng người, chung sức đánh giặc. Là Quốc Công tiết chế, Trần Quốc Tuấn đã khiến cho được những điều khó nghĩ đến nhất để thu phục nhân tâm.
Chiêu Minh vương Trần Quang Khải là con của Thái Tông thánh thượng Trần Cảnh. Xét về ngành nghề thứ, ông là em họ của Trần Quốc Tuấn. Tuy nhiên, vì hiềm khích từ đời cha (vụ Trần Cảnh lấy vợ của Trần Liễu) nên hai anh em cũng dè chừng, ít quan hệ di chuyển với nhau.
Dù vậy, Quốc Tuấn vẫn ứng xử cực kỳ công bằng, chưa từng sử dụng phép công để báo oán riêng. Ông đối xử với Quang Khải cũng như với mọi văn thần, võ tướng khác. Cũng giống Quốc Tuấn, Quang Khải vốn là người có học thức, hiểu biết, tài kiêm văn võ. Ông thường được theo hầu cùng xe với Thánh Tông (tức Trần Hoảng, con vua Thái Tông Trần Cảnh) đi trấn áp giặc cỏ ở miền núi.
“Đại Việt Sử Ký toàn thư” chép: “Trước kia, Thánh Tông thân đi đánh giặc, Quang Khải theo hầu, ghế tể tướng bỏ không, vừa lúc có sứ phương Bắc đến. Thái Tông gọi Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn tới bảo: “Thượng tướng đi theo hầu vắng, trẫm định lấy khanh làm Tư đồ để tiếp sứ phương Bắc”. Quốc Tuấn trả lời: “Việc tiếp sứ giả, thần không dám từ chối, còn như phong thần làm Tư đồ thì thần không dám vâng chiếu. Huống chi Quan gia đi đánh giặc xa, Quang Khải theo hầu mà bệ hạ lại tự ý phong chức, thì tình nghĩa trên dưới, e có chỗ chưa ổn, sẽ không làm vui lòng Quan gia và Quang Khải. Đợi khi xa giá trở về, sẽ xin vâng mệnh cũng chưa muộn”.
Xem thế đủ biết Quốc Tuấn hoàn toàn không muốn tăng thêm lòng nghi kỵ, hiềm khích giữa đôi bên. Với vị thế là anh, ông hài lòng nhịn nhịn nhường.
Một lần khác, Quốc Tuấn từ Vạn Kiếp (thuộc Hải Dương bây giờ) tới thăm. Quang Khải xuống thuyền yến ẩm, trò chuyện suốt cả ngày. Vốn biết Quang Khải rất sợ tắm, Quốc Tuấn mới đùa: “Mình mẩy cáu bẩn, xin tắm giùm”. Thế là Quốc Tuấn cởi áo Quang Khải ra, tắm cho ông bằng nước thơm, vừa tắm vừa nói: “Hôm nay mới được tắm cho Thượng tướng”. Quang Khải vừa đột ngột, vừa cảm phục cũng đáp lại: “Hôm nay cũng được Quốc công tắm rửa cho”. Từ đó, hai người xoá bỏ mọi nghi kỵ, thường di chuyển thân thiết với nhau, tình như thủ túc.
Gương sáng soi cổ lai
Trần Hưng Đạo có khí phách của chủ tướng ba quân. Ảnh qua: soha.vn
Nếu người Trung Hoa thường nói về 1 Gia Cát Khổng Minh trung tiết trinh liệt 1 đời, “cúc cung tận tuỵ, đến chết mới thôi”, 1 lòng phò tá nhà Thục Hán thì người Việt cũng có lý do để kiêu hãnh với Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn cả đời thờ 3 đời vua Trần. Ông chính là biểu trưng của trung nghĩa, là người đặt định ra nội hàm của chữ “Trung” trong cổ sử Việt Nam.
Với quyền lực của 1 Quốc công, nắm trong tay binh quyền cả nước, Trần Quốc Tuấn đích thực chỉ cần hô 1 tiếng thì chính biến lúc nào cũng có thể xảy ra. Nhưng ông không chọn con con đường bất trung, vô nghĩa ấy, dù đó có là lời trăn trối của cha ruột trước lúc ra đi. Trần Hưng Đạo phò tá 3 đời vua Trần (Thái Tông, Thánh Tông và Nhân Tông) không 1 phút sơ sẩy. Dù lập đại công nhưng Quốc Tuấn không thành ra mà trở thành tự phụ, trái lại càng khiêm nhượng, thủ tiết vững hơn.
Vua Trần phong Quốc Tuấn là Thượng Quốc công, có quyền được phong tước cho bất kỳ ai từ hầu trở xuống mà không cần phải xin chiếu chỉ, ngay cả tước hầu cũng là phong trước tâu sau. Dù thế, cả đời ông chưa từng phong tước cho bất kỳ ai, nói cả con cháu thân tộc.
Người ta vẫn thường truyền tụng nhau 1 câu: “Quân tử phục thù 10 năm chưa muộn”. Nhưng đó chỉ là 1 thứ ý kiến cứng nói, quá tuyệt đối. Với Trần Hưng Đạo, quân tử chính là bỏ thù riêng, lo việc nước, cứu nước, an dân, giúp vua chống cường địch, trị cõi tục.
Quốc Tuấn tài kiêm văn võ, khí phách trùm non nước, được quần chúng xưng tụng là “Đức Thánh Trần”. Không có nhiều nhân vật trong sử Việt nhận được vinh diệu ấy. Trong “Dụ chư tì tướng hịch văn”, thường quen gọi là “Hịch tướng sĩ”, Trần Hưng Đạo đã viết những lời gan ruột nhất, biểu hiện chí khí, bản lĩnh cũng như lòng tận trung với đất nước, với hoàng triều:
“Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt tầm tã, chỉ giận chưa thể xả giết thịt, lột da, ăn gan, uống máu kẻ thù, dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, ngàn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin khiến cho”.
Những nhân vật lịch sử rút cuộc đã hoàn tất vai diễn của mình, tấm màn sàn diễn lịch sử khép lại nhưng dư vang của nó hãy còn vang mãi ngàn thu. Lớp bụi thời kì dù có cuốn lấp nhưng những bộ mặt cũ, chiến công cũ vẫn lưu danh hậu thế. Văn hoá của 1 dân tộc, bản lĩnh của 1 dân tộc biểu hiện chính ở những anh dũng nhân tài ấy. Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn để lại cho hậu thế “Binh thư yếu lược”, là tâm huyết cả 1 đời chinh trận mạc mạc của mình. Nhưng đó chưa phải là điều đáng quý nhất. Di sản lớn nhất của ông chính là tấm lòng trung nghĩa, tận tuỵ báo quốc, là khí phách bất phàm của 1 bậc chính nhân quân tử.
ĐKN (t/h)
Trả lời